Kỷ niệm 63 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5 (1954-2017): Góp sức người, sức của cho chiến dịch
![]() |
Bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh, tấn công vào khu trung tâm Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu |
Sau thời gian chiến đấu khiến sinh lực địch tiêu hao, quân đội ta dần chính quy hóa, xây dựng được nhiều trung, sư đoàn mạnh. Sức dân có khả năng cung cấp đủ lương thực, quân trang cho một trận đánh lớn. Vì thế, tháng 12-1953, Đảng đã chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và Pháp. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, nhân dân tỉnh Bắc Giang, đặc biệt là bà con ở các vùng tạm chiếm tích cực đấu tranh chống địch bắt phu, bắt lính. Du kích ra sức đánh địch, phá đường giao thông tiếp viện, đồng thời bảo vệ các tuyến đường vận chuyển hàng hóa, vũ khí của ta. Lực lượng vũ trang tiến công địch bằng cách đánh phục kích, tập kích, bao vây bắn tỉa, khiến địch tổn thất lớn.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng đánh địch ở Điện Biên Phủ, mở đầu chiến dịch lịch sử. Trước diễn biến trên, Tỉnh ủy yêu cầu lực lượng vũ trang cần tranh thủ tiến công tiêu diệt sinh lực địch, bao vây các vị trí quan trọng; đồng thời kiềm chế pháo binh của kẻ thù từ Phủ Lạng Thương bắn lên Đèo Cà (Yên Thế).
Thực hiện chủ trương trên, ngày 15-3-1954, một tiểu đội trinh sát tỉnh Bắc Giang đã đánh đắm tàu chiến; ba ca-nô; diệt gọn 100 tên trên đoạn sông Cầu. Bộ đội huyện Lục Ngạn phối hợp với các cánh quân khác diệt gọn bọn tề phản động ở Tứ Xuyên. Quân và dân Bắc Giang bố trí nhiều trận phục kích trên đường 1A, 13B, tiếp tục vận dụng chiến thuật độn thổ, chặn đường tiếp viện của chúng. Chỉ trong thời gian ngắn, ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy hàng chục xe vận tải, thu nhiều vũ khí, thiết bị quân sự.
Để cứu vãn tình thế, địch cố sức vây bắt thanh niên đi lính, thành lập các đơn vị bảo an để bổ sung lực lượng cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chúng mở trường huấn luyện quân sự cấp tốc, đào tạo sĩ quan và ráo riết tuyên truyền tư tưởng phản động với luận điệu “Bảo vệ quốc gia, bảo vệ tự do dân chủ” nhằm làm cho thanh niên ta sa ngã, nhất là thanh niên theo đạo thiên chúa và vùng dân tộc ít người.
Nắm rõ tình hình trên, Tỉnh ủy Bắc Giang tập trung lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc đấu tranh chống bắt lính và vận động binh lính địch trở về quê hương. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, quần chúng nhiều nơi tuyên truyền, vận động gia đình có chồng, con, anh em không đi lính cho địch; đề nghị phụ nữ cam kết giữ chồng con ở nhà; họp đoàn thanh niên ký giao ước không đứng về phe kẻ thù. Ngoài ra, nhiều đoàn quần chúng ở thị xã Bắc Giang (nay là TP Bắc Giang) còn lên bốt địch, chặn ô tô chở binh lính để đòi chồng con, anh em trở về với gia đình. Việc rải truyền đơn, dán áp-phích, tuyên truyền qua hệ thống loa phát thanh được thực hiện thường xuyên. Thắng lợi trên mặt trận đấu tranh binh vận của tỉnh ta góp phần làm tan rã hàng ngũ địch, ngăn chặn được phần lớn quân tiếp viện của chúng cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Những ngày cuối chiến dịch, khắc phục mọi khó khăn, nhân dân các dân tộc trong tỉnh ngày đêm dồn sức cho tiền tuyến. Từ làng quê tự do đến các vùng địch tạm chiếm, hàng vạn người xung phong đi dân công hỏa tuyến. Bà con không có điều kiện phục vụ chiến dịch thì tăng gia sản xuất. Để bảo vệ các tuyến đường giao thông vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến thông suốt, an toàn, Ban cầu đường, phà từ tỉnh đến địa phương được thành lập và hoạt động tích cực. Công nhân đội phá bom và hơn 1 vạn dân công hỏa tuyến đã dũng cảm tháo bom nổ chậm, nhanh chóng sửa lại cầu, đường, phà khi hư hỏng.
Chiến dịch càng lúc càng quyết liệt, Bắc Giang đã nhanh chóng huy động hàng vạn dân công, hàng nghìn xe đạp, gần một nghìn xe trâu, bò kéo và ngựa thồ để làm nhiệm vụ tiếp lương, tải đạn ra mặt trận. Trực tiếp đối đầu với giặc Pháp, nhiều cán bộ, chiến sĩ là con em tỉnh Bắc Giang đã chiến đấu mưu trí, dũng cảm và lập chiến công xuất sắc, góp phần làm nên chiến thắng rạng rỡ non sông.
Mạc Yến (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc (0)