Điều còn mãi
- Anh à! Anh xuống ngay đi!Vẫn ngồi yên, tôi nói vọng xuống:
- Có việc gì thế? Anh đang bận tý!
Nhà tôi nói to hơn, giọng không bình thường:
- Cô Tam trên Chũ xuống chơi, có việc gấp!
Tôi vội dừng máy tính, xuống phòng khách. Nhìn cô Tam, người láng giềng cũ ở Lục Ngạn là tôi thấy có chuyện rồi: Nét mặt buồn thiu, vẻ căng thẳng, lo lắng hiện rõ. Chắc nhà tôi và cô vừa nói chuyện gì mà cả hai chị em mắt đỏ hoe, ngân ngấn nước. Tôi chào cô và hỏi ngay:
- Có việc gì không vui hả em?
Giọng cô nghèn nghẹn:
- Ông Bích gay lắm rồi anh ạ!
Tôi dồn dập hỏi:
- Là sao? Ông ấy làm sao? Đang ở đâu?
- Ông ấy đang nằm chờ ở phòng cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa tỉnh.
![]() |
Minh họa: Đình Tân |
Mấy hôm trước ông ấy xuống nhà người anh em kết nghĩa ở làng Thuyền. Sáng nay, em đang trên xe đi Hà Nội thì nhận được điện thoại báo ông ấy ốm, nguy kịch lắm. Em bảo đưa ông ấy lên Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Em vừa xuống xe vào ngay viện. Ông ấy vẫn nằm đấy chưa làm thủ tục được. Không có giấy tờ gì mà. Em vào báo để anh chị biết.
Tôi giục vợ bỏ hết công việc cùng nhau ra viện xem sao. Nhà tôi chỉ cách viện dăm bảy chục mét.
Ông Bích vẫn nằm ở phòng cấp cứu, cúm rúm, quần đùi, áo bộ đội cũ, mắt nhắm nghiền, bất động. Nhà tôi vốn mau nước mắt, nhìn ông, lay gọi không thấy ông nói gì, òa khóc nức nở. Tôi phải nhắc nhở, bà ấy mới chỉ dám sụt sùi.
Bác sĩ trực phòng cấp cứu bảo mới sơ cứu thôi, không nhập viện cho ông Bích được vì không có bất cứ giấy tờ gì. Tôi gặp Giám đốc bệnh viện, trình bày ngắn gọn về hoàn cảnh đáng quan tâm của ông Bích, đề nghị bệnh viện tiếp nhận, khám, điều trị theo sự giúp đỡ, hỗ trợ trong khuôn khổ chính sách của Nhà nước và nguồn kinh phí có thể của bệnh viện; chúng tôi cùng giúp sức vào chăm lo. Tôi xin đứng ra bảo lãnh và nộp tiền tạm ứng.
Rất may, Giám đốc bệnh viện đồng ý cho ông Bích nhập viện.
Cô Tam bảo tôi:
- Em phải ra Hà Nội có việc gấp, mọi việc ở đây nhờ anh trông nom. Tiếng là ông ấy có người em kết nghĩa ở làng Thuyền, nhưng anh biết đấy, họ khó khăn, chả hơn ông Bích mấy!
Trước khi đi, cô Tam gọi điện về thôn cũ của chúng tôi. Nhanh thế, ngay hôm sau, bà con trên ấy đã cử người xuống đem theo tiền và đường sữa, hoa quả. Người nhiều, người ít, không cần ghi chép, ai cũng có quà cho ông Bích.
Thật may, cùng với sự giúp đỡ của bệnh viện và chăm sóc của chúng tôi, ông Bích đã qua khỏi và xuất viện. Vào tôi nghỉ vài ngày, lại lại sức, ông nói với vợ chồng tôi:
- Mai em về trên ấy thôi!
Giữ thế nào cũng không được, tôi đành bắt xe để ông "về trên ấy".
Ông đi rồi, tôi chợt thấy bâng khuâng và cứ tủm tỉm cười. Nhà tôi hỏi:
- Anh cười gì đấy?
- Anh cười vì ông Bích bảo ông ấy về! "Về trên ấy". Ngọt như không!
Nhà tôi cũng cười:
- Ừ nhỉ? Các nhà ngôn ngữ phải định nghĩa lại từ "về", hay là với ông Bích đâu cũng là quê, là nhà thật rồi!
Ông Bích lại về Trung Nghĩa, nơi hơn 20 năm trước gia đình tôi đã có 15 năm, cô Tam tới 25 năm ở. Rồi hai gia đình chúng tôi đều đã chuyển đi. Mảnh đất này là đất ở, là tâm hồn, nói không ngoa, là sự gắn bó máu thịt của chúng tôi. Chúng tôi là người thôn đúng nghĩa, cả về hành chính và tình cảm. Nhưng ông Bích không hoàn toàn thế! Gọi ông là "ông Bích thôn tôi" nhưng ông rất nhiều cái không ở thôn: Không hộ khẩu, hồ sơ lý lịch đất đai, nhà cửa, vợ con, họ hàng...
Dễ đến 30 năm rồi, cô chú Tam Cường đưa một người đàn ông nhỏ thó, đen đúa, quần cộc, áo xanh công nhân về nhà. Hỏi lúc ông bảo tuổi này, lúc tuổi khác, ông xưng em với người đứng tuổi, nhưng nhìn nét mặt, dáng đi, nhất là khi nghe ông nói chuyện "ngày xưa" tôi đồ rằng ông phải trên dưới năm mươi. Ông ít nói. Tai đã nằng nặng rồi. Ông làm cỏ, xới xáo vườn giúp cô Tam. Rồi hết việc nhà cô Tam, ông sang tôi và nhiều nhà trong thôn.
Quanh năm, trừ những ngày quá rét, ông quần đùi, cởi trần. Ông không được khỏe, làm cũng không khéo nhưng bù lại, ông cần mẫn, tự giác, thật thà. Rất đúng "giờ hành chính" nhé; một mình dưới vườn rộng mênh mông, vẫn sột soạt cắt cỏ, cuốc đất. Nhà nào được ông làm vườn thì những ngày ấy bọn trộm vặt quả, bẫy gà không hề bén mảng. Công xá ư? Ai trả bằng nào cũng được. Nuôi ông thật dễ nhưng cũng thật khó. Ông không ăn thịt lợn, kể cả mỡ, nước mắm. Ăn vừng lạc, tôm tép, nhộng tằm. Ăn trứng nhưng là trứng luộc, xong cơm rồi mới bóc trứng, chấm muối, bột canh ăn riêng (lũ trẻ nhà tôi gọi là tráng miệng). Một đĩa rau luộc, mấy miếng đậu phụ cũng xong bữa. Ông ăn cùng mâm với chủ nhà. Nhà nào hoặc cố tình hoặc vô ý sắp cho ngồi ăn riêng là ông chỉ làm ngày hôm ấy thôi. Không cả lấy công xá, ông thôi ngay. Chắc ông cho là chủ nhà coi thường mình.
Có lần tôi hỏi ông sao nhà ấy, nhà nọ khẩn khoản mời làm vườn giúp mà ông nhất quyết không? Ông bảo nhà nó lộn xộn lắm, hết mẹ lại đến con gái, đêm hôm và cả ban ngày, giai đến... trông chướng mắt. Hỏi chướng mắt là làm sao, ông gắt: Đừng hỏi nữa!
Ông chỉ biết làm vườn, trò chuyện thì cũng trò chuyện với chủ nhà, không bao giờ ngồi chỗ đông người nhưng trong thôn xóm, nhà ai có việc buồn, ông đến ngay, không phải mời gọi. Ông đến, phúng viếng rồi xăm xắn kê kê, dọn dọn. Nhà có tiệc vui, mời ông, ông chỉnh tề quần áo công nhân, dứt khoát buộc chủ nhà nhận quà mừng. Thôn xóm có việc gì, từ quyên góp các quỹ đến vệ sinh ngõ xóm, văn nghệ, thể thao, ông đều xin được tham gia đóng góp hoặc cổ vũ, động viên.
Khi gia đình tôi còn ở trên ấy, ông nghỉ ở nhà tôi. Giường riêng, quạt riêng, chăn màn đầy đủ. Các con tôi coi ông như người thân. Bác cháu đi đâu về có quà là cho nhau.
Một lần, nhân có hai anh em, uống với nhau chén rượu, tôi hỏi về giấy tờ, quê hương, bản quán, anh em, họ mạc, tin cậy tôi, ông nhớ dần dần và kể, tôi ghép nối lại:
- Em gốc ở Vĩnh Phú. Nhà có hai anh em. Thật ra, em là con chú, mồ côi cha mẹ sớm, ở với bác ruột. Anh em thoát li làm cán bộ ngân hàng, nay cùng vợ con ở Hà Nội. Em làm công nhân ở Đạm Hà Bắc. Chả hiểu sao năm ấy lại bị điều chuyển ra Nhiệt điện Phả Lại. Hồ sơ do tổ chức chuyển. Ra Phả Lại, do không biết đường, đi bộ tự lần tìm, em bị chậm mấy ngày, quản đốc không bằng lòng, quát tháo, em nhận lỗi, xin chịu kỷ luật chứ không lạy lục xin xỏ, nhưng họ chắc thấy em yếu, kiếm cớ không nhận, em bỏ đấy lộn lại Phân đạm. Phân đạm bảo em không còn là người của họ. Thế là em mất việc, mất cả hồ sơ, không sổ gạo, không lương lậu. Như người đào ngũ, em xấu hổ không dám về quê, lang thang khắp nơi tìm việc làm, kiếm sống. Em làm cho cửa hàng thực phẩm. Cô Tam làm ở đó, biết em, cho em về đây.
Tôi hỏi:
- Thế anh biết tình hình người anh của mình không?
Ông lặng yên rồi khẽ nói:
- Ông giáo đừng nói với ai nhé. Anh em làm gì to lắm ở ngân hàng, đã đến tìm em. Em đã về Hà Nội. Cũng được anh ấy may sắm đàng hoàng. Nhưng không ăn ở vô công rồi nghề cả đời ở đấy được. Khổ cho anh, vì chị dâu chắc không bằng lòng em, khách khứa thì sang trọng...
Tôi trêu:
- Còn ông thì suốt ngày ở trần. Trưa thì ngủ ngồi, thỉnh thoảng giật mình ngã bổ chửng. Phải thế không?
Ông cười thèn thẹn:
- Thôi mình làm mình sống, thầy giáo ạ. Ở đây cũng quen rồi. Không ai đuổi em. Chính quyền cũng không ai căn vặn em về hộ khẩu, giấy tờ. Sống chết có số. Mà em hỏi thầy giáo câu này. Là em thế này có đáng xấu hổ không, có làm người khác xấu hổ lây không?
Tôi nhìn vào mắt ông, thành thật:
- Sao phải xấu hổ? Ông là người tử tế, rất đáng được tôn trọng chứ!
Đó là cuộc trò chuyện gần 30 năm trước, khi ông còn trung niên, khỏe mạnh, chưa lẫn.
Tôi đã về TP Bắc Giang 20 năm rồi. Ông Bích từ lúc tóc mới lốm đốm bạc, tai còn nghiêng nghiêng nghe được, đến nay tóc bạc trắng, tai điếc đặc, vài tháng một lại lên xe khách xuống tôi. Đi đường thì quần dài, áo bộ đội hoặc công nhân, mũ cối. Xuống tới nhà tôi là quần cộc, cởi trần. Kệ khách. Ăn với tôi một bữa cơm. Vẫn thế! Rau muống luộc, đậu luộc, nhộng tằm rang không mỡ, hai quả trứng vịt luộc để riêng "tráng miệng". Thêm lon bia hoặc vài chén rượu cao. Ăn uống xong, ngồi ghế ngủ gật, tỉnh dậy là: Thôi em về!
Nhà tôi biếu ông ít tiền để đi xe, để "cúp tóc", gói quà để về trên ấy ông "đón tay" trẻ con! Vợ chồng, con cháu tôi và cả ông Ngô Quang Bích đã là người của thôn tôi, thôn Trung Nghĩa!
Truyện ngắn của Phạm Ngọc Lanh
Ý kiến bạn đọc (0)