Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh: Nhiều ý kiến tham gia thảo luận ở tổ
BẮC NINH - Sáng 31/10, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sau khi nghe các báo cáo, tờ trình, các đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận ở tổ, cho ý kiến vào các Dự án: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh có 3 đại biểu tham gia góp ý nhiều nội dung của 2 dự án luật.
|  | 
| Quang cảnh phiên thảo luận ở tổ của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh, sáng 31/10. | 
Đại biểu cơ bản nhất trí với các tờ trình và báo cáo thẩm tra về sự cần thiết của 2 dự án luật nhằm kịp thời quán triệt, thể chế các chủ trương, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng về ngoại giao và phát triển công nghiệp quốc phòng, anh ninh. Nội dung của 2 dự thảo luật phù hợp với chủ trương, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Qua đó, tạo hành lang pháp lý để tạo lập môi trường phát triển công nghiệp an ninh, đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn; đồng thời đáp ứng yêu cầu chính trị, công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Các đại biểu cũng tham góp nhiều ý kiến xác đáng để cơ quan soạn thảo tiếp tục hoàn thiện 2 dự án luật bảo đảm tính khả thi cao.
Góp ý vào dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, đại biểu Trần Văn Lâm, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Công tác đại biểu của Quốc hội cơ bản nhất trí với các quy định về Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh, Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, với các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội nhằm tạo lập môi trường phát triển công nghiệp an ninh, đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn.
|  | 
| Đại biểu Trần Văn Lâm phát biểu thảo luận tại tổ, sáng 31/10. | 
Tuy nhiên, đại biểu cũng đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, làm rõ và hoàn thiện một số quy định để bảo đảm tính hiệu quả và khả thi. Khi xây dựng cơ chế phải tính toán tận dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư để công nghệ quốc phòng có thể sử dụng cho an ninh và ngược lại công nghệ của an ninh có thể sử dụng cho quốc phòng. Cần có cơ chế phối hợp giữa hai quỹ này để khi cần huy động nguồn lực tổng hợp thì có thể cả hai quỹ này cùng hỗ trợ được, còn trong điều kiện bình thường thì các bên chủ động. Từ đó, tạo sức mạnh tổng hợp quốc gia phát triển các lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh một cách hiệu quả nhất.
Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân cũng nhất trí về sự cần thiết và các nội dung lớn của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Đồng thời góp ý một số nội dung:
Về chức năng, nhiệm vụ của tổ hợp công nghiệp an ninh, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát kỹ để bảo đảm không bỏ sót nội dung quan trọng và tránh chồng chéo với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hiện có. Xem xét bổ sung khái niệm “công nghệ chiến lược” trong phần giải thích từ ngữ của dự thảo Luật, bao quát phạm vi điều chỉnh của Luật. Luật hiện hành đã giải thích tương đối rõ các khái niệm “công nghệ nền” và “công nghệ lõi”. Trên thực tế, quá trình triển khai công nghiệp quốc phòng, an ninh cho thấy cần xác định thêm một nhóm “công nghệ chiến lược”, có ý nghĩa định hướng, chi phối, bảo đảm ưu thế công nghệ và khả năng tự chủ quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Về thành phần của tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung khái niệm “Hội đồng quản lý phát triển công nghiệp an ninh” trong phần giải thích từ ngữ của dự thảo Luật, nhằm làm rõ vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của tổ chức này trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp an ninh, tránh tình trạng lúng túng trong thực thi và chồng chéo với các cơ quan quản lý, điều phối khác trong lĩnh vực công nghiệp an ninh.
|  | 
| Đại biểu Trần Thị Vân tham gia thảo luận ở tổ, sáng 31/10. | 
Đại biểu cũng đề nghị bổ sung quy định về tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp, tổ chức tham gia Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan và thống nhất trong quá trình lựa chọn, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện hoặc mang tính hành chính, hình thức. Đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, bảo đảm Tổ hợp thực sự quy tụ được các đơn vị có năng lực, uy tín, đủ sức tham gia thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu, chiến lược về công nghiệp an ninh trong tình hình mới.
Về thành viên tham gia tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, đại biểu cho rằng một số nội dung cần được quy định cụ thể, rõ ràng hơn để bảo đảm tính khả thi và đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành:
- Về tiêu chí và cơ chế lựa chọn thành viên: Hiện dự thảo mới dừng ở quy định “thành viên tham gia là tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài Công an nhân dân có năng lực, tiềm lực khoa học và công nghệ”. Quy định này còn chung chung, thiếu tiêu chí định lượng và cơ chế đánh giá năng lực. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể tiêu chí lựa chọn thành viên, bao gồm: năng lực nghiên cứu - sản xuất, tiềm lực tài chính, năng lực công nghệ, uy tín, kinh nghiệm hợp tác trong lĩnh vực an ninh, bảo đảm an ninh thông tin và bí mật nhà nước; đồng thời có quy định nhằm khuyến khích doanh nghiệp tư nhân công nghệ cao, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học đủ năng lực tham gia, tạo điều kiện mở rộng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp an ninh.
- Về cơ chế phối hợp, điều hành và chia sẻ thông tin: Hiện dự thảo chưa quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các thành viên trong Tổ hợp. Đề nghị bổ sung quy định cụ thể cơ chế điều phối, liên kết sản xuất - nghiên cứu - thử nghiệm - thương mại hóa sản phẩm giữa các thành viên, bảo đảm hoạt động theo chuỗi giá trị, tránh trùng lặp hoặc cạnh tranh không lành mạnh; thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu và kết quả nghiên cứu trong phạm vi được phép, có cơ chế bảo vệ bí mật nhà nước và bảo mật thương mại, bảo đảm an toàn thông tin và quyền sở hữu trí tuệ; xây dựng hệ thống đánh giá, xếp hạng và kiểm tra định kỳ đối với các thành viên Tổ hợp, làm căn cứ xem xét duy trì hoặc rút tư cách thành viên, bảo đảm tính kỷ luật, chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động.
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà (Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh) đóng góp ý kiến vào 3 nội dung lớn trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế.
|  | 
| Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà tham gia thảo luận tại tổ, sáng 31/10. | 
Về hồ sơ trình về việc đàm phán điều ước quốc tế, tại khoản 3, Điều 1 dự thảo Luật bổ sung khoản 1a Điều 11 của Luật Điều ước quốc tế quy định: “Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo bằng văn bản về việc quyết định đàm phán điều ước quốc tế, hồ sơ trình về việc đàm phán chỉ cần bao gồm nội dung kiến nghị ủy quyền đàm phán.”. Đồng thời, sửa đổi khoản 2 Điều 11 của Luật Điều ước quốc tế: “Trong trường hợp cần thiết, cơ quan đề xuất kiến nghị kết thúc đàm phán điều ước quốc tế. Hồ sơ trình về việc kết thúc đàm phán điều ước quốc tế phải bao gồm dự thảo điều ước quốc tế thể hiện phương án kết thúc đàm phán.” Những quy định mới này nhằm rút gọn thủ tục, tăng tính chủ động cho cơ quan đề xuất, phù hợp với chủ trương phân quyền, phân cấp trong công tác đối ngoại, đồng thời đáp ứng những tình huống thực tế phát sinh trong đàm phán quốc tế - đặc biệt là các cuộc đàm phán đa phương, hoặc đàm phán cấp cao được tiến hành trong thời gian ngắn theo chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chủ tịch nước hay Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch, hợp pháp và tránh bị lạm dụng, đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể loại văn bản nào được coi là “chỉ đạo bằng văn bản” nhằm tránh trường hợp áp dụng tùy tiện các văn bản hành chính thông thường có thể ảnh hưởng đến tính pháp lý và tính chính thống của quy trình đàm phán. Về phạm vi áp dụng, cần xác định rõ những loại điều ước quốc tế nào được phép áp dụng quy định rút gọn này, không nên áp dụng đối với điều ước có nội dung tạo nghĩa vụ tài chính hoặc làm phát sinh cam kết pháp lý quốc tế phức tạp.
Về quy định “trong trường hợp cần thiết”, đại biểu cho rằng đây là cụm từ mang tính định tính, nếu không quy định rõ, có thể dẫn đến tùy nghi áp dụng, ảnh hưởng đến tính thống nhất và trách nhiệm giải trình. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, quy định tiêu chí rõ ràng về các trường hợp cần thiết.
Về chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài (khoản 13, Điều 1, dự thảo luật), đại biểu cho rằng cần thiết phải bổ sung nguyên tắc pháp lý rõ ràng làm cơ sở cho việc quyết định chấp nhận hay phản đối bảo lưu, đồng thời quy định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành trong quá trình tham mưu, đề xuất phương án xử lý để bảo đảm thống nhất, minh bạch và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Dự thảo luật cho phép Bộ Ngoại giao kịp thời thông báo khi bên nước ngoài đưa ra bảo lưu đối với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhằm bảo đảm các cơ quan, tổ chức liên quan nắm bắt kịp thời, chủ động trong xử lý. Đây là quy định tiến bộ, thể hiện sự hoàn thiện về mặt quy trình trong công tác quản lý, thực thi điều ước quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh số lượng và phạm vi điều ước mà Việt Nam tham gia ngày càng mở rộng.
Tuy nhiên, dự thảo mới chỉ dừng lại ở cơ chế thông báo, mà chưa quy định cụ thể nguyên tắc, tiêu chí và thẩm quyền trong việc xem xét, quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên nước ngoài. Thực tiễn cho thấy, việc xác định quan điểm đối với bảo lưu của các quốc gia đối tác có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực áp dụng của điều ước quốc tế tại Việt Nam, cũng như tác động đến lợi ích, nghĩa vụ pháp lý của nước ta. Nếu thiếu căn cứ rõ ràng và thống nhất, dễ dẫn đến cách hiểu và áp dụng tùy tiện giữa các cơ quan, thậm chí tạo ra rủi ro pháp lý hoặc xung đột trong thực thi điều ước. Do đó, cần thiết phải bổ sung nguyên tắc pháp lý rõ ràng làm cơ sở cho việc quyết định chấp nhận hay phản đối bảo lưu, đồng thời quy định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành trong quá trình tham mưu, đề xuất phương án xử lý để đảm bảo thống nhất, minh bạch và bảo vệ lợi ích quốc gia. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung điểm mới vào cuối khoản 13, Điều 1 dự thảo Luật quy định về nguyên tắc bảo lưu, với nội dung: “Việc chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm chủ quyền, an ninh, lợi ích quốc gia, phù hợp với mục tiêu, phạm vi điều ước và thông lệ pháp lý quốc tế.”
Về đăng tải điều ước quốc tế (khoản 16, Điều 1, dự thảo luật), đại biểu tán thành với hướng sửa đổi Điều 60 của luật hiện hành. Đề nghị hoàn thiện cơ chế bảo mật, xác thực điện tử và phối hợp liên ngành để quy định này thực sự khả thi, hiệu quả và phù hợp với xu thế quản trị quốc gia hiện đại. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung tiêu chí rõ ràng cho việc không đăng tải công khai (điều ước liên quan đến quốc phòng, tình báo, an ninh hoặc nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước…); đồng thời bổ sung quy định yêu cầu cơ quan được miễn công bố phải lưu trữ và quản lý bản gốc trong hệ thống hồ sơ mật của Bộ Ngoại giao, bảo đảm truy xuất phục vụ kiểm tra, giám sát.
 Bắc Ninh
                    Bắc Ninh
                     
                                        
 
  
  
 














Ý kiến bạn đọc (0)